VỤ ÁN: TỐ CÁO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẨM MỸ TRÁI PHÉP
Sau đây Equity Law Firm xin được tư vấn về nội dung sau: VỤ ÁN TỐ CÁO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẨM MỸ TRÁI PHÉP
(Do tính chất bảo mật thông tin vụ án nên toàn bộ Thông tin cá nhân, Tên địa phương, Tên cơ quan hành chính đã được mã hóa)
I. TÓM TẮT VỤ VIỆC
– Tháng 7/2021, chị Tống Thị Thu T. liên hệ với Equity Law Firm đề nghị được hỗ trợ pháp lý cho trường hợp tố cáo các vi phạm sai phạm của Viện Thẩm mỹ M. trong hoạt động kinh doanh trái phép dịch vụ thẩm mỹ.
– Chị T. biết đến Viện Thẩm mỹ M. thông qua các thông tin quảng cáo trên ứng dụng Facebook. Do có nhu cầu chữa nám trên mặt, ban đầu chị T. đã đăng ký liệu trình chữa nám bằng tia lazer với mức phí dịch vụ là 8.000.000 VNĐ (Tám triệu đồng).
– Trong quá trình chữa trị, chị T. được các nhân viên của Viện Thẩm mỹ M.(bà H.) nhiều lần tư vấn và gợi ý tham gia liệu trình giảm mỡ bụng với phương pháp tiêm trực tiếp thuốc tan mỡ bụng vào cơ thể. Do chưa từng nghe đến phương pháp này trước đó, chị T. có gặng hỏi về phương pháp máy đầm bụng nhưng bà H. khẳng định rằng việc sử dụng máy trên là không hiệu quả và cam đoan khi chị T. sử dụng phương pháp tiêm thuốc tan mỡ sẽ giảm ngay 30cm trên ba vùng bụng, eo và hông.
– Do chị T. ở xa, không có nhiều thời gian đi lại cũng như tin tưởng vào cam kết mà Viện Thẩm mỹ M. đưa ra, ngày 20/03/2021 chị T. đã ký kết Hợp đồng điều trị với bà Phạm Thị L. – người quản lý của Viện Thẩm mỹ M. với giá trị hợp đồng là 25.000.000 VNĐ (Hai mươi lăm triệu đồng) cho liệu trình giảm mỡ bụng.
– Từ ngày 10/03/2021, chị T. liên tục được các nhân viên ở đây tiêm thuốc tan mỡ vào cơ thể theo thời gian biểu cố định. Đến ngày 31/03/2021, chị T. đã hoàn thành xong liệu trình thứ nhất. Tuy nhiên, cơ thể chị T. hoàn toàn không có bất cứ thay đổi nào. Không đạt được kết quả như mong đợi, chị T. có hỏi bà H. thì bà H. trả lời rằng có thể thuốc chưa ngấm hết vào cơ thể, khuyên chị T. nên nghỉ điều trị khoảng nửa tháng, sau đó đến khám lại tại Viện Thẩm mỹ M.
– Từ ngày 15/04/2021 đến ngày 07/05/2021, chị T. tiếp tục thực hiện liệu trình thứ hai và vẫn không có bất kỳ chuyển biến gì đối với cơ thể. Chị T. đã nhiều lần khiếu nại với bà L. và yêu cầu giải quyết trường hợp của chị T. Tuy nhiên, bà L. chỉ trả lời do cơ thể chị T. có thể không tương tác với thuốc, bà L. sẽ kê đơn để chị T. về nhà uống thuốc và khuyên chị T. nên kết hợp sử dụng máy đầm bụng.
– Chị T. đã không đồng ý với đề nghị của bà L. do thuốc bà L. đưa cho chị T. là thuốc giảm cân, hoàn toàn không phù hợp với nhu cầu của chị T., đồng thời Viện Thẩm mỹ M. cũng cam kết điều trị cho chị T. bằng phương pháp tiêm thuốc tan mỡ không giới hạn số buổi. Ngoài ra, ban đầu khi bắt đầu liệu trình, chị T. đã đề cập đến máy đầm bụng nhưng Viện Thẩm mỹ M. phủ nhận hiệu quả của việc sử dụng máy cũng như khẳng định Viện Thẩm mỹ M. không có phương pháp trên.
– Bên cạnh đó, chị T. được biết một số nhân viên, bác sĩ tại Viện Thẩm mỹ M. đều không có bằng cấp, chứng chỉ hành nghề để thực hiện các dịch vụ thẩm mỹ; không có kinh nghiệm để thực hiện các hoạt động như phẫu thuật tạo hình, tiêm, chích, bơm chất vào cơ thể người, giảm mỡ,… Chị T đã nhiều lần liên hệ, yêu cầu Viện Thẩm mỹ M. hoàn trả cho chị T tiền trị liệu nhưng nhân viên, người quản lý của Viện Thẩm mỹ M. đều trốn tránh, từ chối liên hệ, gặp mặt.
II. NỘI DUNG TỔNG KẾT
1. Viện Thẩm mỹ M. không đáp ứng đầy đủ các điều kiện để thực hiện kinh doanh dịch vụ thẩm mỹ
Thứ nhất, Viện Thẩm mỹ M. cần xin cấp phép trước khi thực hiện dịch vụ thẩm mỹ
– Từ khi bắt đầu hoạt động, Viện Thẩm mỹ M. đã quảng bá và thực hiện nhiều dịch vụ thẩm mỹ khác nhau như phun môi, xăm mày, tạo hình môi, nâng mũi, nhấn mí, nối mi, nâng cơ mặt và tái tạo da, xóa sẹo và nếp nhăn bằng tia lazer,… trực tiếp tại cơ sở.
Khoản 4 Điều 11 Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12/11/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế quy định:
“Điều 23a. Điều kiện chung để cấp giấy phép hoạt động đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
…
5. Cơ sở dịch vụ thẩm mỹ không thuộc loại hình phải có giấy phép hoạt động nhưng phải có văn bản thông báo đáp ứng đủ điều kiện cung cấp dịch vụ thẩm mỹ theo mẫu quy định tại Phụ lục VIII ban hành kèm theo Nghị định này gửi về Sở Y tế nơi đặt trụ sở trước khi hoạt động ít nhất 10 ngày.
Các dịch vụ thẩm mỹ có sử dụng thuốc, các chất, thiết bị để can thiệp vào cơ thể người (phẫu thuật, thủ thuật, các can thiệp có tiêm, chích, bơm, chiếu tia, sóng, đốt hoặc các can thiệp xâm lấn khác) làm thay đổi màu sắc da, hình dạng, cân nặng, khiếm khuyết của các bộ phận trên cơ thể (da, mũi, mắt, môi, khuôn mặt, ngực, bụng, mông và các bộ phận khác trên cơ thể người), xăm, phun, thêu trên da có sử dụng thuốc gây tê dạng tiêm chỉ được thực hiện tại bệnh viện có chuyên khoa thẩm mỹ hoặc phòng khám chuyên khoa thẩm mỹ hoặc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có phạm vi hoạt động chuyên môn về chuyên khoa thẩm mỹ tùy theo phạm vi hoạt động chuyên môn được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt”.
– Như vậy, để thực hiện các dịch vụ thẩm mỹ như hiện nay, Viện Thẩm mỹ M. phải được Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp phép hoạt động dưới dạng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh như bệnh viện có chuyên khoa thẩm mỹ hoặc phòng khám chuyên khoa thẩm mỹ hoặc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có phạm vi hoạt động chuyên môn về chuyên khoa thẩm mỹ.
Thứ hai, nhân sự của Viện Thẩm mỹ M. không đáp ứng đầy đủ điều kiện về bằng cấp, năm kinh nghiệm để có thể thực hiện dịch vụ thẩm mỹ
– Để được cấp phép hoạt động, Viện Thẩm mỹ M. cần phải đáp ứng nhiều điều kiện khác nhau, trong đó yêu cầu về nhân lực phải tuân theo quy định tại khoản 4 Điều 11 Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12/11/2018, cụ thể như sau:
“Điều 23a. Điều kiện chung để cấp giấy phép hoạt động đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
…
3. Nhân lực:
a) Mỗi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải có một người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật. Người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật và trưởng các khoa chuyên môn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
…
+ Phòng khám chuyên khoa thẩm mỹ: Là bác sỹ chuyên khoa phẫu thuật tạo hình hoặc chuyên khoa phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ hoặc chuyên khoa phẫu thuật thẩm mỹ;…
– Có thời gian hành nghề khám bệnh, chữa bệnh ít nhất là 36 tháng sau khi được cấp chứng chỉ hành nghề hoặc có thời gian trực tiếp tham gia khám bệnh, chữa bệnh ít nhất là 54 tháng. Việc phân công, bổ nhiệm người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải được thể hiện bằng văn bản;
– Là người hành nghề cơ hữu tại cơ sở.
b) Ngoài người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, các đối tượng khác làm việc trong cơ sở nếu có thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh thì phải có chứng chỉ hành nghề và chỉ được thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh trong phạm vi công việc được phân công. Căn cứ vào phạm vi hoạt động chuyên môn, văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận đào tạo và năng lực của người hành nghề, người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phân công người hành nghề được thực hiện các kỹ thuật chuyên môn bằng văn bản”.
– Đối chiếu quy định trên, để được cấp phép hoạt động dưới hình thức cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, Viện Thẩm mỹ M. phải đảm bảo có ít nhất 01 người chịu trách nhiệm về chuyên môn, kỹ thuật là bác sỹ chuyên khoa phẫu thuật tạo hình hoặc chuyên khoa phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ hoặc chuyên khoa phẫu thuật thẩm mỹ với thời gian hành nghề ít nhất 36 tháng kể từ khi được cấp chứng chỉ hành nghề hoặc trực tiếp tham gia khám bệnh, chữa bệnh ít nhất 54 tháng và hành nghề cơ hữu tại cơ sở.
Ngoài ra, các nhân viên làm việc trong Viện Thẩm mỹ M., tùy thuộc vào công việc và vị trí chuyên môn, đều phải có chứng chỉ hành nghề hoặc giấy chứng nhận hoặc chứng chỉ đào tạo, dạy nghề (đối với xăm, phun, thêu trên da nhưng không sử dụng thuốc gây tê dạng tiêm theo khoản 10 Điều 11 Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12/11/2018).
– Tuy nhiên, trên thực tế phần lớn nhân viên, bác sĩ tại Viện Thẩm mỹ M. đều không có bằng cấp, chứng chỉ hành nghề ngay cả bác sĩ trực tiếp thực hiện phẫu thuật, thủ thuật trên khuôn mặt của khách hàng.
Như vậy, dù chưa được cấp phép hoạt động phù hợp với các dịch vụ cung cấp, nhân lực không đáp ứng đủ điều kiện nhưng Viện Thẩm mỹ M. vẫn ngang nhiên kinh doanh, trực tiếp thực hiện dịch vụ thẩm mỹ khác nhau cho khách hàng, có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng các quy định trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh.
Thứ ba, Viện Thẩm mỹ M. có thể bị mức xử phạt từ 20.000.000 VNĐ đến 30.000.000 VNĐ và bị đình chỉ hoạt động từ 03 đến 06 tháng đối với hành vi kinh doanh trái phép
– Khoản 6 và điểm đ khoản 8 Điều 40 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP ngày 28/09/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế như sau:
“6. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sử dụng thuốc, các chất, thiết bị để can thiệp vào cơ thể người (phẫu thuật, thủ thuật, các can thiệp có tiêm, chích, bơm, chiếu tia, sóng, đốt hoặc các can thiệp xâm lấn khác) làm thay đổi màu sắc da, hình dạng, cân nặng, khiếm khuyết của các bộ phận trên cơ thể (da, mũi, mắt, môi, khuôn mặt, ngực, bụng, mông và các bộ phận khác trên cơ thể người), xăm, phun, thêu trên da có sử dụng thuốc gây tê dạng tiêm tại các cơ sở không phải là bệnh viện có chuyên khoa thẩm mỹ hoặc phòng khám chuyên khoa thẩm mỹ hoặc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác có phạm vi hoạt động chuyên môn về chuyên khoa thẩm mỹ.
…
8. Hình thức xử phạt bổ sung:
đ) Đình chỉ hoạt động của cơ sở trong thời hạn từ 03 tháng đến 06 tháng đối với hành vi quy định tại khoản 6 Điều này”.
– Viện Thẩm mỹ M. là cơ sở hoạt động trong lĩnh vực thẩm mỹ, đòi hỏi yêu cầu cao về kiến thức và chuyên môn của nhân viên, bác sĩ hành nghề tại đây. Việc cố tình sử dụng nhân viên, bác sĩ không có bằng cấp, chứng chỉ hành nghề; thực hiện các dịch vụ thẩm mỹ khi chưa được cấp phép của Viện Thẩm mỹ M. là trái pháp luật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của khách hàng.
2. Viện Thẩm mỹ M. cố tình đưa thông tin sai sự thật để chị T. tin tưởng và sử dụng dịch vụ
Thứ nhất, Viện Thẩm mỹ M. đã cố tình đưa thông tin sai sự thật về dịch vụ mà mình kinh doanh
– Khi bà H. tư vấn cho chị T. về cách thức giảm mỡ vùng bụng, bà H. khẳng định phương pháp tiêm thuốc tan mỡ là phương pháp tối ưu và không mất nhiều thời gian; cam kết người dùng sau mỗi liệu trình sẽ giảm đáng kể số đo các vòng và Viện Thẩm mỹ M. sẽ điều trị cho khách hàng đến khi giảm được 30cm ba vòng bụng, eo, hông.
Tuy nhiên, trên thực tế dù đã thực hiện đến liệu trình thứ hai nhưng cơ thể chị T không hề thay đổi, số đo các vòng vẫn giữ nguyên chỉ số. Dù cam kết không giới hạn số buổi điều trị của khách hàng nhưng Viện Thẩm mỹ M. đã tự ý kết thúc liệu trình điều trị của chị T., kê đơn thuốc giảm cân và đề nghị tôi kết hợp sử dụng máy đầm bụng.
Thứ hai, quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ, không chính xác về dịch vụ cho người tiêu dùng
– Khoản 1 Điều 14 Luật Thương mại năm 2005 quy định:
“Thương nhân thực hiện hoạt động thương mại có nghĩa vụ thông tin đầy đủ, trung thực cho người tiêu dùng về hàng hoá và dịch vụ mà mình kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin đó”.
Theo đó, Viện Thẩm mỹ M. có nghĩa vụ cung cấp cho chị T. các thông tin về dịch vụ thẩm mỹ (phương pháp tiêm thuốc tan mỡ) mà Viện Thẩm mỹ M. kinh doanh một cách trung thực, chính xác và đầy đủ.
– Điểm d khoản 1 Điều 47 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/08/2020 của Chính phủ quy định về mức phạt đối với hành vi vi phạm về cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng như sau:
“1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với thương nhân có một trong các hành vi vi phạm về cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng sau đây:
đ) Che giấu thông tin hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ, sai lệch, không chính xác cho người tiêu dùng theo quy định”.
Đối chiếu quy định trên, Viện Thẩm mỹ M. có dấu hiệu vi phạm các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi cung cấp cho chị T các thông tin sai lệch, không chính xác về hiệu quả của thuốc tan mỡ, số buổi liệu trình, hứa hẹn kết quả sau khi điều trị để chị T tin tưởng và sử dụng dịch vụ. Viện Thẩm mỹ M. có thể bị xử phạt từ 10.000.000 VNĐ đến 20.000.000 VNĐ đối với hành vi này.
Trên đây là tư vấn của EQUITY LAW FIRM về “VỤ ÁN TỐ CÁO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẨM MỸ TRÁI PHÉP“
LIÊN HỆ LUẬT SƯ TƯ VẤN TRỰC TIẾP: 078 569 0000 – 0969 099 300
Phụ trách nội dung: ThS. LS. Phan Công Tiến – Luật sư điều hành Equity Law Firm
Địa chỉ: Tầng 5, Tòa nhà Bình Vượng Tower, số 200 đường Quang Trung, phường Quang Trung, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Email: tienpc@equitylaw.vn – luatsucongtien@gmail.com
Fanpage: https://www.facebook.com/equitylaw.vn
Zalo liên hệ Luật sư: zalo.me/3357157996900972250
Quét mã QR Zalo Luật sư:
Bạn có thể tham khảo các bài viết liên quan của Equity Law Firm:
– VỤ ÁN: TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
– VỤ ÁN NHÂN VIÊN Y TẾ SAI SÓT VỀ NGHIỆP VỤ, THIẾU TRÁCH NHIỆM GÂY CHẾT NGƯỜI
– BỒI THƯỜNG KHẮC PHỤC HẬU QUẢ DO XÂY DỰNG TRÁI PHÉP, SỬ DỤNG ĐẤT SAI MỤC ĐÍCH
– VỤ ÁN TRANH CHẤP ĐẤT KHAI HOANG